3 Nhân Vật Xuất Sắc Nhất về Hạnh Bố Thí

2022-08-16 16:27:46.0
Thời Phật còn tại thế có 2 nhân vật là Ông Phú Hộ Anāthapiṇḍika và bà Visākhā, đến sau khi Đức Phật nhập Niết bàn thì có thêm vua Asoka

MỤC LỤC

    1. Tích ông phú hộ Anāthapiṇḍika

    Ông phú hộ Anāthapiṇḍika ( còn gọi là Ông Cấp Cô Độc) tên thật là Sudatta, là con phú hộ, đã lập ra một trại bố thí, hằng ngày phân phát vật thực cho những người cô độc không nơi nương tựa. Do đó, người đời tặng ông cái tên mới Anāthapiṇḍika, về sau, phần đông mọi người biết đến tên mới này, còn tên cũ do cha mẹ đặt ít ai biết đến.

    Từ kinh thành Rājagaha đến kinh thành Sāvatthi cách xa 45 do tuần(1). Mỗi do tuần ( 1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles.) ông bỏ ra số tiền 100 ngàn kahāpana (tiền Ấn) nhờ những người bạn thân xây cất một ngôi chùa, để Ðức Phật

    cùng chư Ðại Ðức Tăng nghỉ chân. Khi ông về đến kinh thành Sāvatthi, ông chọn khu vườn của ông hoàng Jeta, rồi mua khoảng đất ấy, bằng cách lót

    vàng trên mặt đất, ông đã xuất kho vàng trị giá khoảng 180 triệu đồng vàng để mua đất, 180 triệu để xây cất ngôi chùa, đặt tên chùa Jetavana, và chi phí thêm số tiền 180 triệu để tổ chức lễ khánh thành dâng ngôi chùa ấy đến chư Tăng tứ phương,

    có Ðức Phật chủ trì chứng minh và làm phước bố thí kéo dài suốt 3 tháng. Như vậy, đại thí chủ Anāthapiṇḍika hiến dâng tổng số tiền 540 triệu làm phước bố thí: Mua đất, cho xây cất chùa Jetavana và tổ chức lễ khánh thành, làm phước bố thí.

    Trong tư thất của ông thường có làm các loại bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng như:

    - Hằng ngày dâng vật thực bằng thẻ có 500 vị.

    - Hằng tháng dâng vật thực 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.

    - Hằng ngày dâng cháo sáng bằng thẻ có 500 vị.

    - Hằng tháng dâng cháo sáng 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.

    - Hằng ngày dâng vật thực đến 500 vị.

    - Dâng vật thực cho Tỳ khưu khách mới đến 500 vị.

    - Dâng vật thực cho Tỳ khưu sắp đi xa 500 vị.

    - Dâng vật thực cho Tỳ khưu bệnh 500 vị.

    - Dâng vật thực cho Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bệnh 500 vị.

    Như vậy, trong tư thất phú hộ Anāthapiṇḍika luôn luôn sửa soạn sẵn 500 chỗ ngồi để đón tiếp chư Tỳ khưu.

    Phú hộ Anāthapiṇḍika vô cùng cảm kích trước tấm lòng bi mẫn của Ngài Ðại Ðức Sāriputta, đã đến thuyết pháp tế độ ông trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

    Ngài Ðại Ðức Sāriputta với Ngài Ðại Ðức Ānanda từ giã ông phú hộ Anāthapiṇḍika không lâu, thì ông phú hộ Anāthapiṇḍika từ giã cuộc đời. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nam ở cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên), có

    sắc thân hào quang sáng ngời, trong lâu đài nguy nga tráng lệ đặc biệt hơn các thiên nam khác.

    Vào canh chót đêm hôm ấy, thiên nam Anāthapiṇṇika từ cõi trời Tusita hiện xuống chùa Jetavana với ánh hào quang sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, tán dương ân đức Ngài Ðại Ðức Sāriputta, rồi đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép trở về cõi Tusita.

    Vị thiên nam Anāthapiṇḍika là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tự các tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn nơi cõi này. Do đó, vị thiên nam Anāthapiṇḍika, khi tái sanh đến cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, vị thiên nam ấy tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên (Brahmaparisajjā); tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Ðạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tịnh cư thiên (Suddhavāsa) có 5 tầng trời theo tuần tự Vô phiền thiên – Vô nhiệt thiên – Thiện hiện thiên – Thiện kiến thiên và đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

    Này chư Tỳ khưu, trong hàng nam Thanh Văn cận sự nam của Như Lai, Anāthapiṇḍika tên thật Sudatta là người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí”.

    2. Tích bà nữ đại thí chủ xuất sắc nhất Visākhā

    Cô Visākhā mới lên bảy tuổi đi cùng với ông nội, phú hộ Meṇḍaka, đến nghe Ðức

    Phật thuyết pháp xong, cô cùng với 500 cô bạn gái đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông  phú hộ Meṇṇaka cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng lúc ấy.

    Bà Visākhā Migāramātā có 20 đứa con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi đứa con trai, mỗi đứa con gái có 20 người con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi cháu trai, mỗi cháu gái lại có 20 người con: 10 con trai, 10 con gái. Như vậy, bà Visākhā Migāramātā có 20 người con, 400 người cháu và 8.000 người chắt.

    Bà Visākhā Migāramātā thường hoan hỉ trong mọi phước thiện bố thí. Một thuở nọ, bà đến đảnh lễ Ðức Phật xin phép 8 đặc ân:

    1- Xin dâng y tắm mưa đến chư Tỳ khưu trọn đời.

    2- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu khách mới đến.

    3- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu sắp đi xa.

    4- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu lâm bệnh.

    5- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bị bệnh.

    6- Xin dâng thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu mắc bệnh.

    7- Hằng ngày xin dâng cháo buổi sáng đến chư Tỳ khưu.

    8- Xin dâng y tắm đến chư Tỳ khưu ni Tăng. Một dịp nọ, đến chùa nghe Ðức Phật thuyết pháp, bà Visākhā mang theo một tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý. Bà cởi trao cho đứa tớ gái, vào đảnh lễ Ðức Thế Tôn, ngồi nghe pháp, nghe xong, bà đảnh lễ Ðức Thế Tôn xin phép đi về, cô tớ gái đi về theo, để quên lại tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Sau khi tất cả mọi người đi về hết, Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy tấm choàng của bà Visākhā để quên lại, bạch Ðức Thế Tôn rằng:

    – Kính bạch Ðức Thế Tôn, bà Visākhā đã về, để quên tấm choàng lại. Bạch Ngài.

    Ðức Thế Tôn dạy rằng:

    – Này Ānanda con nên để một nơi hợp lẽ. 

    Bà Visākhā đi thăm viếng Tỳ khưu bệnh, Tỳ khưu trẻ, Sa di... Bà bảo đứa tớ gái mang tấm choàng trở về. Cô tớ gái đã để quên tấm choàng lại trong giảng đường nên thưa:

    – Thưa bà chủ, con đã để quên tấm choàng. 

    Bà Visākhā dạy rằng:

    – Này con, con đi đến chùa lấy tấm choàng đem về, nhưng nếu Ngài Ðại Ðức Ānanda đã đem tấm choàng cất, thì con không nên lấy lại, ta xin dâng Ngài Ānanda tấm choàng ấy, nghe con!

    Ngài Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy cô tớ gái liền hỏi rằng:

    – Này con, con đến đây để làm gì?

    – Bạch Ngài Ðại Ðức, con để quên tấm choàng của bà chủ, nên trở lại đây để lấy. - Cô tớ gái thưa.

    – Này con, bần tăng đã đem treo ở chỗ kia, con hãy đến lấy đem về.

    – Kính bạch Ngài Ðại Ðức, bà chủ con dặn rằng: nếu Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm vào tấm choàng ấy rồi, thì bà xin dâng Ngài tấm choàng ấy.

    Cô tớ gái trở về, không mang theo tấm choàng, thưa lại với bà chủ sự việc trên.

    Bà Visākhā dạy cô tớ gái rằng:

    – Này con, tấm choàng ấy Ngài Ðại Ðức đã đụng chạm, ta đã dâng đến Ngài rồi, như vậy, Ngài phải giữ gìn nó là một điều vất vả. Vì vậy, con hãy đến đem tấm choàng ấy về đây bán nó, để sắm những vật dụng cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

    Nghe theo lời dạy của bà Visākhā, cô tớ gái đến chùa đem tấm choàng ấy về trao lại cho bà. Bà Visākhā đem bán tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Với giá ấy, không có một nhà phú hộ nào có khả năng mua nổi tấm choàng ấy. Cuối cùng, chính bà Visākhā mua lại nó với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng, bà đến bạch Ðức Thế Tôn rằng:

    – Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài Ðại Ðức

    Ānanda dùng tay đụng tấm choàng của con, để cất giữ, nên con không dám lấy lại; con xin xả tấm choàng ấy bằng cách bán nó, để sắm những vật dụng hợp pháp cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng. Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngoài con ra, không có một ai mua nổi với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Vậy chính con mua lại tấm choàng ấy với giá đó. Bạch Ngài. Kính bạch Ðức Thế Tôn, trong bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, thứ nào cần thiết nhất? Bạch Ngài.

    Ðức Thế Tôn dạy:

    – Này Visākhā con! Vậy con nên xây cất một ngôi chùa gần phía Ðông cửa thành Sāvatthī, để dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

    Vô cùng hoan hỉ, vâng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn, bà mua đất giá 90 triệu đồng vàng, cho xây cất ngôi chùa “Pubbārāma”. Dưới sự chỉ dẫn của Ngài Ðại Ðức Mahāmogallāna, công trình xây dựng suốt 9 tháng mới hoàn thành chi phí thêm 90

    triệu đồng vàng; và tổ chức lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ phướng có Ðức Phật chủ trì, rồi làm phước bố thí kéo dài suốt 4 tháng, chi phí thêm 90 triệu nữa. Như vậy, bà đại thí chủ Visākhā Migāramātā đã hiến dâng tổng số tiền 270 triệu làm phước bố thí: mua đất, xây cất ngôi chùa Pubbārāma và làm lễ khánh thành.

    Tại tư thất của bà Visākhā Migāramātā cũng như tư thất của phú hộ Anāthapiṇḍika, hằng ngày buổi sáng dâng cúng cháo đến chư Tỳ khưu, buổi trưa dâng vật thực đến chư Tỳ khưu, buổi chiều bà đem nước trái cây, thuốc trị bệnh đến dâng cúng đến chư Tỳ khưu bị bệnh v.v....

    Ðức Phật tán dương bà là người cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh bố thí trong hàng cận sự nữ đệ tử của Ngài 

    3. Tích Đức vua Asoka

    Sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, Phật lịch 218, Đức vua Asoka là một đấng minh quân trị vì cõi Nam thiện bộ châu, có nhiều oai lực đặc biệt như thần thông, Ðức Vua có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.

    Hằng ngày Ðức Vua cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu Tăng gồm có 600.000 vị tại cung điện của Ðức Vua, bởi do đức tin trong sạch nơi vị Ðại Ðức Sa di Nirodha.

    Một hôm Ðức Vua dự lễ bố thí tứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng 600.000 vị, Ðức Vua bèn bạch chư Tỳ khưu Tăng rằng:

    - Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có bao nhiêu pháp môn?

    Bạch quý Ngài.

    Chư Ðại Ðức thưa:

    - Thưa Ðại Vương! Chánh pháp mà Ðức Phật thuyết giảng có 84.000 pháp môn.

    Ðức Vua phát sanh đức tin trong sạch nơi 84.000 pháp môn, nên Ðức Vua truyền lệnh cho các quan ở khắp mọi nơi trong nước rằng:

    - Trẫm muốn cúng dường mỗi pháp môn bằng một ngôi chùa và một bảo tháp, vậy Trẫm muốn xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp trên toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, các khanh hãy đến mỗi tỉnh xây cất một ngôi chùa để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và ngôi bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Ðức Phật.

    Ðức vua Asoka xuất ra số tiền gồm có 960 triệu kahāpana để lo xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp. Ngôi chùa trung tâm tại thủ đô đặt tên Asokārāma.

    Việc xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp suốt 3 năm mới hoàn thành

    Khi ấy, một vị Thánh A-ra-hán liền hóa phép thần thông “Mở thế gian” (Lokavivaraṇa), Ðức vua nhìn thấy mọi nơi không có gì che khuất cả.

    Dầu Ðức Vua đang đứng tại ngôi chùa Asokārāma trung tâm, mà có thể nhìn thấy rõ bốn hướng toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, thấy rõ 84.000 ngôi chùa và 84.000 ngôi bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Ðức Phật.

    Thật vậy, Đức vua Asoka vô cùng hoan hỉ hơn bao giờ hết, Ðức Vua suy tư rằng: “Sự việc đại bố thí như thế này, không biết đã có ai từng làm chưa?

    Vì vậy Ðức Vua bèn bạch hỏi chư Ðại Ðức Tăng:

    - Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, trong giáo pháp Ðức Thế Tôn của chúng ta, có thí chủ nào làm phước đại bố thí như thế này không?

    Chư Ðại Ðức Tăng kính thỉnh Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera trả lời câu hỏi của Ðức Vua. Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera trả lời rằng:

    - Thưa Ðại Vương, trong Phật giáo, việc đại bố thí của Ðại Vương như thế này, dầu khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền cho đến nay, chưa có một ai làm được như vậy. Chỉ có Ðại Vương là đại thí chủ làm lễ đại bố thí lớn lao nhất từ trước cho đến nay mà thôi.

    Ðức Vua lắng nghe câu trả lời của Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera rồi phát sanh hỉ lạc chưa từng có, rồi suy tư rằng: “Từ trước cho đến nay, chưa có thí chủ nào làm phước đại bố thí như ta, ta là một đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng lớn lao

    như thế này, chắc có lẽ ta là thân quyến kế thừa Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) có phải không?”.

    Do đó, Ðức Vua bèn bạch hỏi Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera rằng:

    – Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con đã làm đại bố thí bốn thứ vật dụng lớn lao như thế này, vậy, con có phải là “Thân quyến kế thừa của Phật giáo” hay không?

    Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera quán xét về ba-la-mật của thái tử Mahinda và Công chúa Saṃghamittā con của Ðức Vua như thế nào. Ngài biết rõ Thái tử và Công chúa xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giúp cho Phật giáo phát triển tốt đẹp sau này. Cho nên Ngài đáp rằng:

    – Thưa Ðại vương, người trở thành thân quyến kế thừa Phật giáo không phải do nhân đại bố thí. Dầu người đại thí chủ bố thí bốn thứ vật dụng nhiều đến bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ gọi là: paccayadāyaka: đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng, hoặc gọi là: upaṭṭhāka: người hộ độ mà thôi...

    - Thưa Ðại vương, sự thật, người nào dầu bố thí bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng chất chồng từ mặt đất cao đến cõi trời, người ấy không thể gọi là thân quyến kế thừa của Phật giáo.

    - Thưa đại vương, những người nào dầu nghèo hay giàu, nhưng cho phép con của mình xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, chính những người cha mẹ ấy được gọi là thân quyến kế thừa của Phật giáo.

    Lắng nghe lời dạy của Ngài Ðại Ðức Moggaliputtatissatthera như vậy, nên Đức vua Asoka cống hiến vị hoàng thái tử Mahinda yêu quý nhất, cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, thay vì truyền ngôi báu, và Công chúa Sanghamitta xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong Phật giáo. Ðức vua Asoka không chỉ là một đại thí chủ chưa từng có từ trước cho đến nay, mà còn là một thân quyến kế thừa của Phật giáo, bởi vì Ðức vua đã cống hiến, cho phép 2 người con xuất gia trong Phật giáo, Người có công đức lớn gởi các phái đoàn Ðại Ðức Tăng sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā và vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

    Trên đây là những nhân vật đại thí chủ xuất sắc nhất về phước hạnh bố thí trong thời kỳ Ðức Phật còn hiện tiền, và sau thời kỳ Ðức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.

    Trích trong Sách  “Tìm Hiểu Phước Bố Thí” - Tỳ Kheo Hộ Pháp

    Tác giả: Tiểu Ngọc

    Bình luận

    Bài viết cùng chuyên mục

    6 Ý nghĩa của ngày rằm tháng 6 âm lịch
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2024-07-20 08:33:40.0
    Ngày Rằm tháng Sáu còn được gọi là ngày Āsaḷhạpūjā. Āsaḷhà là tên tháng trong lịch của Ấn Độ (tương đương với tháng bảy Tây lịch). Pūjā nghĩa là sự dâng cúng, cúng dường. Ở đây, Pūjā còn có nghĩa là ngày lễ lớn.
    Ý nghĩa ngày rằm tháng 6 âm lịch trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-07-31 11:50:45.0
    1 - Đức Bồ-Tát giáng trần vào lòng mẹ kiếp chót 2 - Đức Bồ-Tát xuất gia 3 - Ðức Phật Chuyển Pháp Luân lần đầu 4 - Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo , cũng là ngày mà Đức Phật thuyết tạng Abhidhamma (Vi diệu pháp) để trả ơn mẫu thân trên cung trời Đao lợi 5 - Ngày khởi điểm mùa an cư kiết hạ của chư Tăng Phật giáo nguyên thủy Theravāda
    Tổng hợp những điều cần biết về phật giáo nguyên thủy
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-06-26 08:00:00.0
    Đạo Phật Nguyên Thủy tin rằng giáo pháp của họ là những lời dạy ban đầu của Đức Phật. Họ không tập trung quá nhiều vào niềm tin đo lường và các giáo lý cực đoan, mà coi chúng như công cụ để giúp mọi người hiểu chân lý thông qua trải nghiệm cá nhân.
    Tìm hiểu về Tội Sát Sanh - Quả Báo của Tội Sát Sanh - Tỳ khưu Hộ Pháp
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-06-12 15:54:13.0
    Người nào phạm điều-giới sát-sinh như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, người ấy đã tạo ác-nghiệp trọng-tội thuộc về loại nghiệp ānantariyakamma: ác-nghiệp vô-gián trọng-tội. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế- tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci,
    Nghiệp Tà Dâm là thế nào - Quả báo của Tà Dâm
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-06-09 11:35:00.0
    "Tà-dâm là sự quan hệ tình dục với người khác mà không phải là vợ, là chồng của nhau. Tà-dâm là một hành vi xấu xa, bất chính, thấp hèn mà chư thiện-trí chê trách. Vì vậy, tà-dâm gọi là ác-nghiệp tà-dâm."
    Rằm Tháng 4 âm lịch Ngày Bồ Tát Thành Đạo
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-05-31 17:32:36.0
    Ngày Rằm tháng 4 âm lịch hay còn gọi là ngày Đại lễ tam hợp Vesak vì nó kỷ niệm 3 Sự kiện lớn - Bồ tát đản sanh - Bồ tát thành đạo - Đức Phật Niết Bàn
    Thần chú Om Mani Padme Hum có nhiều lợi lạc không thể nghĩ bàn
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-05-29 17:47:46.0
    Tác dụng của chú Om Mani Padme Hum còn giúp cho những người thân trong gia đình được nhiều thuận lợi trong cuộc sống, giải trừ nạn ách, hóa giải phiền não, tránh được bệnh tật tai ương, những người quá cố sớm được siêu sinh, đầu thai.
    Văn khấn đền phủ cho gia chủ khi đi đền, chùa
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-05-26 15:01:14.0
    Văn khấn đền phủ là một văn bản không thể thiếu cho người đi lễ chùa. Cùng tham khảo bài viết dưới để biết thêm về văn chuẩn đi lễ chùa.
    Bật mí một số ý nghĩa thả đèn hoa đăng có thể bạn chưa biết
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-05-24 13:00:00.0
    Thả đèn hoa đăng luôn được nhiều người lựa chọn để cầu bình an và may mắn. Thế nhưng, không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa thả đèn hoa đăng.
    Nguồn gốc , ý nghĩ và ngày cử hành lễ Phật Đản 2023
    Phật Pháp Nhiệm Màu - 2023-05-23 11:20:38.0
    Ngày lễ Phật đản là một trong ba ngày lễ lớn trong năm của đạo Phật, cùng với lễ Vu Lan và lễ Thành đạo. Trước năm 1959, các nước thường tổ chức lễ Phật đản vào ngày 8/4 âm lịch.
    Chia sẻ