Nhiều tín đồ đi chùa lễ Phật thường thấy khẩu hiệu “A Di Đà” khắp nơi, nếu để ý kỹ sẽ thấy tượng Phật Thích Ca và A Di Đà thường được tôn trí trong chánh điện của chùa. Tượng Phật cao lớn, uy nghiêm tạo cho người ta cảm giác uy nghiêm, tôn nghiêm. Nhưng trên thực tế, nhiều người không hiểu về đạo Phật có thể không phân biệt được đâu là Phật Thích Ca, đâu là Phật A Di Đà. Đặc điểm của Phật Thích Ca và Phật A Di Đà là gì? sự khác biệt giữa họ là gì? Bài viết dưới đây hãy để lichvannien365 giải thích giúp bạn nhé.
Theo sách sử ghi lại, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này và đã sáng lập ra Phật Giáo. Cõi Ta Bà là cõi đau khổ, chính là trái đất, nơi con người đang sinh sống.
Ở cõi giới này, Đức Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh, nên người đời tôn xưng Đức Phật Thích Ca là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài là vị Phật được chứng thực có trong lịch sử.
Còn Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa. Tên của Ngài nghĩa là Vô Lượng Thọ, nghĩa là thọ mệnh vô lượng và Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng.
Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực lạc an vui ở Tây phương. Trong cuộc đời hoằng Đạo của Đức Phật Thích Ca, rải rác trong các Kinh điển, Ngài đã giới thiệu cho tín đồ của mình về Đức Phật A Di Đà và cõi nước Đức Phật A Di Đà đang giáo hóa chúng sinh.
Đức Phật Thích Ca sau khi chứng Thánh quả, Ngài có khả năng vận dụng trí tuệ, thần thông thấy biết sự vận hành của tất cả sự vật, hiện tượng, nhân sinh trong vũ trụ một cách chuẩn xác.
Nhờ khả năng đặc biệt này nên Ngài thấy rõ quá trình tu hành của Đức Phật A Di Đà qua nhiều kiếp. Thấy rõ môi trường sống và đời sống sinh hoạt của chúng sanh ở Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật làm giáo chủ. Như vậy, Phật A Di Đà là vị Phật được Đức Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng ta.
Theo lời dạy của Phật Thích Ca, con người nếu muốn sau khi chết được tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc thì trong quá trình sống, làm việc luôn hướng về điều thiện, làm điều thiện, siêng năng niệm Thánh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, thì khi chết chúng ta sẽ đước tái sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc này.
Sau khi tái sinh đến cõi này, chúng ta tiếp tục cùng mọi người tu hành theo sự hướng dẫn của Phật A Di Đà cho đến khi chứng đắc Thánh quả giải thoát.
Hình dáng đặc trưng Phật A Di Đà trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ, tượng trưng cho màu mặt trời lặn phương Tây, áo có thể khoát vuông ở cổ, trước ngực có chữ “vạn”.
Tư thế tay Phật A Di Đà có thể trong tư thế đứng, tay làm ấn giáo hóa, tức là tay mặt đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước. Trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.
Phật A Di Đà cũng có thể ngồi kiết già trên tòa sen, tay bắt ấn thiền, tay để ngang bụng, lưng bàn tay phải nằm chồng lên lòng bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhau. Trên tay Phật có thể giữ một cái bát, là dấu hiệu cho giáo chủ.
Một dạng khác của ấn thiền ở tượng Phật A Di Đà là các ngón tay giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út của hai bàn tay nằm lên nhau, ngón cái và ngón trỏ mỗi tay tạo thành hai vòng tròn chạm nhau. Vì thế, ấn này còn gọi là Ấn thiền A Di Đà.
Phật A Di Đà thường được minh họa cùng hai vị Bồ Tát là Quán Thế Âm bên trái, cầm cành dương và bình nước cam lộ và Đại Thế Chí bên phải, cầm bông sen xanh.
Không ai biết phật A Di Đà xuất hiện từ khi nào. Chỉ biết rằng phật chúng biết đến Phật A Di Đà là do Phật Thích Ca giới thiệu. Phật Thích Ca nhờ khả năng đặc biệt mà có thể nhìn rõ quá trình tu hành của Đức Phật A Di Đà qua nhiều kiếp, có thể thấy rõ môi trường sống và quá trình tu hành của đức phật A Di Đà qua nhiều kiếp, thấy rõ môi trường sống và sinh hoạt của chúng sinh tại chốn Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật làm chủ.
Một người là bậc giáo chủ của cõi bà ta, một người lại là giáo chủ của cõi Tây Phương Cực Lạc. Một người là vị Phật không có thật mà chỉ xuất hiện trong kinh phật giáo. Trong khi người kia lại được chứng thực là có thật trong lịch sử và là người sáng lập ra Phật Giáo. Vì thế không thể xác định được liệu giữa Phật A Di Đà và Phật Thích Ca, đâu mới là vị Phật có trước cũng như vị phật nào lớn hơn.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau, có người cho rằng Phật Thích Ca tức Như Lai Phật Tổ là lớn nhất vì ngài là người sáng lập ra Phật Giáo. Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng, A Di Đà mới là vị phật bậc nhất:
“Ba đời 10 phương Phật
A DI ĐÀ bậc nhất
Chín phẩm độ chúng sanh
Oai đức không cùng cực.”
Tuy nhiên trên thực tế, không có vị phật nào lớn nhất, mỗi vị Phật đều cơ duyên hội ngộ với chúng sanh. Tin tưởng vào Phật, học theo Phật Giáo, tâm luôn hướng thiện, tích đức chính là những điều mà Phật Giáo muốn nhắc nhở với bất kỳ ai. Người xưa tin rằng, nếu nhất tâm tu hành cho đến khi chứng đắc Thành Quả sẽ được giải thoát khỏi cõi Ta Bà về với chốn Tây Phương Cực Lạc vui vẻ nơi Phật A Di Đà trị vì.
Phật A Di Đà
Phật Thích Ca Mâu Ni
4. Sự khác nhau về tư thế tay giữa Phật Thích Ca và Phật A Di Đà
Phật A Di Đà thường trong tư thế đứng và tay làm ấn giáo hóa. Tay phải đưa ngang vai và chỉ lên trên, còn tay trái đưa ngang bụng và chỉ xuống dưới. Hai lòng bàn tay hướng về phía trước, ngón cái và ngón trỏ chạm nhau làm thành vòng tròn.
Hoặc cũng có thể phật A Di Đà ngồi trên tòa sen, tay bắt ấn thiền để ngang bụng, lưng bàn tay phải nằm chồng lên lòng bàn tay trái và hai ngón cái chạm nhau. Hoặc tay phải đưa ngang vai và chỉ lên trên, tay trái bắt ấn thiền để ngang bụng.
Phật Thích Ca Mâu Ni tay lại thường xếp ngay ngắn trên đùi, hai bàn tay bắt ấn thiền hoặc ấn chuyển pháp luân, ngoài ra phật cũng có thể cầm chiếc bát màu đen hoặc xanh đen, đặc biệt không bao giờ duỗi một cánh tay.